Kỷ niệm 95 năm Ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (3-2-1930/3-2-2025)
Các kỳ Đại hội của Đảng và những dấu ấn lịch sử - Đại hội lần thứ V: Từng bước tháo gỡ khó khăn, bổ sung nhận thức về xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng có ý nghĩa quan trọng trong quá trình quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, phản ánh những tư duy đổi mới của Đảng đang được hình thành
Những khó khăn lớn về kinh tế và xã hội
Đến đầu năm 1982, trong nông nghiệp, hình thức khoán sản phẩm theo Chỉ thị 100 của Ban Bí thư đã được áp dụng trên phạm vi cả nước đem lại hiệu quả rõ rệt. Diện tích, năng suất, sản lượng lương thực và các loại nông sản đều tăng. Khoán sản phẩm là hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh, quản lý kinh tế, đưa đến nhận thức mới về hợp tác xã nông nghiệp, không những mang lại hiệu quả kinh tế - xã hội lớn mà còn mở ra hướng mới cho việc cải tiến quản lý kinh tế nông nghiệp, bước đầu khắc phục được một số mặt tiêu cực, tồn tại nhiều năm trong sản xuất và phân phối ở các hợp tác xã sản xuất nông nghiệp.
Trong công nghiệp, việc thực hiện Quyết định 25-CP và Quyết định 26-CP của Hội đồng Chính phủ bước đầu tạo nên những nét mới trong phong trào thi đua lao động, sản xuất ở các đơn vị kinh tế quốc doanh. Phong trào thi đua tăng năng suất lao động, tiết kiệm vật tư, nguyên vật liệu… được phát động rộng rãi trong các nhà máy, xí nghiệp trên toàn quốc. Đời sống người lao động ở một số nơi từng bước được cải thiện. Các mặt văn hoá, xã hội, giáo dục, y tế, khoa học - kỹ thuật cũng được Đảng và Nhà nước quan tâm và có nhiều biện pháp tháo gỡ.
Tuy nhiên, những yếu tố đổi mới trong kinh tế mới chỉ là bước đầu, chưa toàn diện, chưa đủ thời gian phát huy tác dụng tạo nên những chuyển biến căn bản. Nhiều chỉ tiêu của Đại hội IV không đạt được, nền kinh tế đất nước vẫn ở trong tình trạng trì trệ và còn rất nhiều khó khăn. Sản xuất phát triển chậm trong khi dân số tăng nhanh[1]; nền kinh tế mất cân đối nghiêm trọng, thu nhập quốc dân chưa bảo đảm được tiêu dùng xã hội (một phần phải dựa vào đi vay và viện trợ nước ngoài); lương thực, vải mặc và các hàng tiêu dùng thiết yếu đều thiếu; tình hình cung ứng năng lượng, vật tư… rất căng thẳng; giữa thu và chi tài chính, giữa hàng và tiền, giữa xuất khẩu và nhập khẩu còn mất cân đối nghiêm trọng.
Thực trạng đó đẩy đất nước lâm vào khủng hoảng kinh tế - xã hội. Tình hình nghiêm trọng của đất nước đặt ra cho Đảng phải trả lời câu hỏi: Vì sao tình hình kinh tế - xã hội lại sa sút và làm thế nào để ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội đang ở mức “dưới đáy”?
Trước bối cảnh đó, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng diễn ra tại Thủ đô Hà Nội từ ngày 15-3-1982. Tham dự Đại hội có 1.033 đại biểu thay mặt cho 1.727.784 đảng viên cả nước. 47 đoàn đại biểu các đảng cộng sản và công nhân, các tổ chức cách mạng trên thế giới đã đến dự Đại hội. Đại hội bầu Ban Chấp hành Trung ương gồm 152 đồng chí, trong đó có 116 ủy viên chính thức và 36 ủy viên dự khuyết. Ngày 30-3-1982, Hội nghị lần thứ Nhất Ban Chấp hành Trung ương khóa V bầu Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Tổng Bí thư và Ủy ban Kiểm tra Trung ương. Đồng chí Lê Duẩn được bầu lại làm Tổng Bí thư.
Báo cáo Chính trị tại Đại hội đã nêu rõ những kết quả đạt được từ sau ngày miền Nam giải phóng, chỉ rõ “bên cạnh những thắng lợi, thành tựu có rất nhiều khó khăn và hiện nay, trên mặt trận kinh tế, đất nước ta đang đứng trước nhiều vấn đề gay gắt. Kết quả thực hiện các kế hoạch kinh tế trong 5 năm (1976 - 1980) chưa thu hẹp được những mất cân đối nghiêm trọng của nền kinh tế quốc dân. Sản xuất phát triển chậm trong khi số dân tăng nhanh. Thu nhập quốc dân chưa bảo đảm được tiêu dùng xã hội, một phần tiêu dùng xã hội phải dựa vào vay và viện trợ, nền kinh tế chưa tạo được tích lũy. Lương thực, vải mặc và các hàng tiêu dùng thiết yếu đều thiếu. Tình hình cung cấp năng lượng, vật tư, tình hình giao thông vận tải rất căng thẳng. Nhiều xí nghiệp sử dụng công suất ở mức thấp. Chênh lệch giữa thu và chi tài chính, giữa hàng và tiền, giữa xuất khẩu và nhập khẩu còn lớn. Thị trường và vật giá không ổn định. Số người lao động chưa được sử dụng còn đông. Đời sống nhân dân lao động còn nhiều khó khăn”[2]. “Trong đời sống kinh tế, văn hoá, trong nếp sống và an toàn xã hội, có những biểu hiện tiêu cực kéo dài; trên một số mặt, trận địa xã hội chủ nghĩa bị những nhân tố tư bản chủ nghĩa và phi xã hội chủ nghĩa xâm lấn”[3].
Báo cáo Chính trị nhấn mạnh: “Những khuyết điểm, sai lầm trên đây chứng tỏ rằng, về một số vấn đề, chúng ra nắm chưa thật vững chuyên chính vô sản mà nội dung toàn diện đã được xác định trong Nghị quyết Đại hội lần thứ IV của Đảng. Đó là những khuyết điểm, sai lầm rất nghiêm trọng. Ban Chấp hành Trung ương xin nghiêm khắc tự phê bình trước Đại hội. Đề nghị sau Đại hội này sẽ tiến hành phê bình sâu sắc trong Đảng, trong các cơ quan Nhà nước các cấp, đề ra những biện pháp có hiệu lực để sửa chữa những khuyết điểm, sai lầm ấy”[4].
Hai nhiệm vụ chiến lược trong giai đoạn mới
Trên cơ sở phân tích sâu sắc tình hình thế giới và trong nước, đánh giá ưu điểm, khuyết điểm và phân tích nguyên nhân của các ưu, khuyết điểm nói trên, Báo cáo Chính trị đề ra hai nhiệm vụ chiến lược của toàn dân, toàn quân ta trong giai đoạn cách mạng mới: “Một là, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội; Hai là, sẵn sàng chiến đấu, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”[5].
Cùng với việc thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược, Việt Nam phải luôn tăng cường tình đoàn kết chiến đấu và mở rộng hợp tác toàn diện với Liên Xô, với Lào và Campuchia, với các nước xã hội chủ nghĩa, luôn luôn ủng hộ cuộc đấu tranh của nhân dân tất cả các nước chống chủ nghĩa đế quốc và phản động quốc tế, vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Báo cáo Chính trị đề ra những nhiệm vụ chủ yếu trong 5 năm 1981 - 1985 nhằm: “Cơ bản ổn định được tình hình kinh tế và xã hội, đáp ứng những yêu cầu cấp bách và thiết yếu nhất của đời sống nhân dân, giảm nhẹ những chỗ mất cân đối nghiêm trọng nhất của nền kinh tế, khắc phục một bước quan trọng tình trạng không bình thường về phân phối lưu thông, tăng thêm tiền đề và điều kiện để tiến lên mạnh mẽ và vững chắc hơn trong những năm sau”[6].
Báo cáo xây dựng Đảng và Báo cáo bổ sung Điều lệ Đảng khẳng định, Đảng Cộng sản Việt Nam được Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện là “một Đảng Mác - Lênin kiên cường, vững vàng về đường lối”, đã tổ chức và lãnh đạo nhân dân vượt qua mọi thử thách nghiêm trọng của đất nước, luôn luôn phát huy tinh thần cách mạng tiến công để đưa cách mạng tiến lên không ngừng. Đảng đã nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, kết hợp hài hoà chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế vô sản trong sáng. Bên cạnh những thắng lợi đã giành được trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, Đảng cũng đã phân tích những khuyết điểm và sai lầm trong lãnh đạo và quản lý kinh tế - xã hội, hiểu thêm thực tiễn đất nước, có kinh nghiệm và bước trưởng thành mới trên lĩnh vực này.
Trên cơ sở tình hình thực tế của Đảng và của đất nước, từ những nhiệm vụ mới được đề cập trong Báo cáo Chính trị, công tác xây dựng Đảng có nhiệm vụ: Tiếp tục nâng cao tính chất giai cấp công nhân, tính tiên phong của Đảng; xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức nhằm bảo đảm thực hiện thắng lợi đường lối của Đảng, nâng cao năng lực và hiệu quả lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, làm cho Đảng ta luôn luôn giữ vững bản chất cách mạng và khoa học, trong sạch, có sức chiến đấu cao và gắn bó chặt chẽ với quần chúng. Tăng cường công tác tư tưởng để củng cố Đảng và nâng cao chất lượng lãnh đạo chính trị của Đảng, đáp ứng hai nhiệm vụ chiến lược. Thực hiện đúng đắn nhiệm vụ tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, kết hợp với phát huy hiệu lực quản lý của Nhà nước, bảo đảm quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V có ý nghĩa quan trọng trong quá trình quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đại hội tự phê bình và phê bình thẳng thắn, nghiêm túc về những khuyết điểm, yếu kém trong lãnh đạo quản lý kinh tế, quản lý xã hội. Đại hội phản ánh những tư duy đổi mới của Đảng đang được hình thành, thể hiện rõ ở những điểm sau: Đảng đã có nhận thức mới về thời kỳ qua độ, phân kỳ thời kỳ quá độ và xác định chặng đường trước mắt ở Việt Nam; xác định duy trì nền kinh tế nhiều thành phần ở miền Nam; nhận thức mới về công nghiệp hóa trên cơ sở nhấn mạnh nông nghiệp là mặt trận hàng đầu trong chặng đường trước mắt, coi ổn định tình hình kinh tế - xã hội là nhiệm vụ bức thiết nhất; đồng thời, nhận thức mới về hai nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc cũng như làm rõ mối quan hệ của hai nhiệm vụ đó.
Đại tá, PGS, TS NGUYỄN VĂN SÁU, Phó viện trưởng Viện Lịch sử quân sự
[1] Từ năm 1975 đến năm 1980, trong khi sản lượng lương thực tăng hơn 1 triệu tấn thì dân số tăng lên hơn 7 triệu người.
[2] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện đảng toàn tập, Tập 43, Nxb CTQG, Hà Nội, 2005, tr.48.
[3] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện đảng toàn tập, Tập 43, Nxb CTQG, Hà Nội, 2005, tr.48.
[4] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện đảng toàn tập, Tập 43, Nxb CTQG, Hà Nội, 2005, tr.51.
[5] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện đảng toàn tập, Tập 43, Nxb CTQG, Hà Nội, 2005, tr.51 - 52.
[6] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện đảng toàn tập, Tập 43, Nxb CTQG, Hà Nội, 2005, tr.96.
Cập nhật ngày 31/1/2025