Chương trình 135 ở Lai Châu: Góp phần giảm nghèo
![]() Người dân sử dụng máy cày mini phục vụ sản xuất (Ảnh: TQ) |
Hiện toàn tỉnh Lai Châu có 108 xã, phường, thị trấn, 1.164 thôn bản. Trong đó, có 75 xã đặc biệt khó khăn, 622 thôn bản đặc biệt khó khăn (có 52 thôn bản đặc biệt khó khăn thuộc xã khu vực I, II) thuộc diện đầu tư của Chương trình 135 theo quy định tại Quyết định số 551/QĐ-TTg ngày 04/4/2013 của Thủ tướng Chính phủ. Tỷ lệ người dân tộc thiểu số chiếm 85,17% dân số. Tỷ lệ hộ nghèo toàn tỉnh (thời điểm 31/12/2016) chiếm 40,04%, trong đó tỷ lệ hộ nghèo ở vùng đặc biệt khó khăn chiếm khoảng 58,22%.
Những năm qua, công tác xoá đói giảm nghèo nói riêng, các chính sách đảm bảo an sinh nói chung được Đảng, Chính phủ đặc biệt quan tâm thông qua việc phê duyệt tiếp tục đầu tư các chương trình, chính sách như: Chương trình 135; chương trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo bền vững giai đoạn 2016-2020; chính sách hỗ trợ các dân tộc đặc biệt khó khăn, hỗ trợ cứu đói, hỗ trợ tiền điện cho hộ nghèo...
Để triển khai kịp thời chương trình, Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh đã ban hành các Nghị quyết, Quyết định phê duyệt Chương trình Giảm nghèo bền vững trên địa bàn tỉnh Lai Châu giai đoạn 2016-2020, trên cơ sở đó, các ngành, các cấp cụ thể hoá các chỉ tiêu giảm nghèo vào Nghị quyết, kế hoạch của cơ quan, đơn vị. Thời gian qua, với sự nỗ lực của cấp ủy, chính quyền, đoàn thể và Nhân dân vùng thụ hưởng chính sách, Chương trình 135 trên địa bàn tỉnh đã đạt được một số kết quả quan trọng, cơ sở hạ tầng được bổ sung, hoàn thiện, góp phần quan trọng thúc đẩy phát triển kinh tế- xã hội; bộ mặt nông thôn miền núi, vùng cao có nhiều thay đổi; đời sống vật chất, tinh thần của đồng bào các dân tộc được cải thiện đáng kể; năng lực cán bộ ở cơ sở và nhận thức của Nhân dân được nâng lên về nhiều mặt…
Đồng thời, phân cấp quản lý chương trình thực hiện theo đúng quy định. Đối với các dự án đầu tư cơ sở hạ tầng, dự án phát triển sản xuất, UBND các huyện, thành phố quyết định đầu tư các dự án. Việc phân cấp cho xã làm chủ đầu tư tiếp tục được tăng cường, 100% xã được giao làm chủ đầu tư dự án phát triển sản xuất. Tất cả các xã đều thành lập Ban giám sát xã và Ban giám sát cộng đồng để giám sát việc thực hiện các chính sách trên địa bàn. Việc quản lý, khai thác, duy tu, bảo dưỡng công trình sau đầu tư được thực hiện theo quy định tại Quyết định số 16/2014/QĐ-UBND của UBND tỉnh. Trong đó, hướng dẫn cụ thể về đối tượng, định mức và quy trình thực hiện, thanh toán vốn duy tu, bảo dưỡng. Chương trình thực hiện theo nguyên tắc “Xã có công trình, dân có việc làm và tăng thêm thu nhập”, phần lớn các công trình được đầu tư trên địa bàn xã, bản đều có sự tham gia lao động của người dân để tăng thu nhập như: Vận chuyển vật liệu xây dựng, phát tuyến, đào kênh mương ... Bên cạnh đó, người dân được tham gia vào hầu hết các khâu thực hiện dự án như: Cho ý kiến vào kế hoạch thực hiện các dự án; tham gia lựa chọn đối tượng, nội dung hỗ trợ; giám sát quá trình tổ chức thực hiện (thông qua Ban giám sát cộng đồng); tiếp nhận, quản lý và sử dụng các dự án đầu tư ... Công tác kiểm tra, thanh tra, giám sát tình hình thực hiện Chương trình được tăng cường.
Từ nguồn vốn chương trình 135, năm 2016 tỉnh đã thực hiện hỗ trợ phát triển sản xuất như hỗ trợ giống cây trồng, vật nuôi, vật tư cho 10.077 hộ; hỗ trợ 2.329 hộ/693 máy móc thiết bị phục vụ sản xuất, chế biến…. Việc triển khai thực hiện dự án đảm bảo đúng đối tượng, nội dung và định mức theo quy định, qua đó tiếp tục giúp các hộ nghèo có điều kiện để phát triển sản xuất. Đồng thời, hỗ trợ đầu tư cơ sở hạ tầng thực hiện đầu tư 90 công trình, trong đó giao 3.005 triệu đồng để đầu tư 14 công trình chuyển tiếp, giao 75.835 triệu đồng để đầu tư 76 công trình khởi công mới, duy tu, bảo dưỡng 88 công trình hạ tầng cơ sở.
Có thể khẳng định, Chương trình 135 tiếp tục có nhiều tác động tích cực tới tình hình kinh tế, xã hội vùng đặc biệt khó khăn. Nguồn lực của Chương trình cơ bản ổn định đã giúp chính quyền địa phương chủ động trong việc triển khai các giải pháp giảm nghèo bền vững trên địa bàn; góp phần hoàn thiện hệ thống cơ sở hạ tầng thiết yếu ở các xã, thôn bản đặc biệt khó khăn (bình quân mỗi năm có khoảng trên 70 công trình được đầu tư mới; trên 80 công trình được duy tu bảo dưỡng); tạo điều kiện cho người nghèo, hộ nghèo phát triển sản xuất, nâng cao thu nhập… Chương trình đã làm thay đổi bộ mặt nông thôn ở các xã đặc biệt khó khăn, tạo điều kiện thuận lợi cho đồng bào dân tộc ở các vùng miền núi, vùng cao phát triển sản xuất, ổn định cuộc sống. Việc đầu tư xây dựng, ổn định và phát triển kinh tế xã hội cho các xã đặc biệt khó khăn thông qua các chương trình dự án 135 là một trong những chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước, đáp ứng nguyện vọng của Nhân dân.
Tuy nhiên, bên cạnh những tác động tích cực, các chính sách cấp phát của Chương trình nói riêng, các chương trình, chính sách giảm nghèo nói chung cũng mang lại những tác động không mong muốn. Ngoài việc tạo điều kiện, thúc đẩy người nghèo, hộ nghèo vươn lên thoát nghèo, các chính sách cũng tạo ra tâm lý trông chờ, ỷ lại của một bộ phận hộ nghèo vào sự giúp đỡ của Nhà nước, của cộng đồng.Việc lồng ghép các nguồn vốn đã được tập trung thực hiện, song kết quả lồng ghép còn hạn chế do những khó khăn về cơ chế chính sách, trên thực tế người dân chỉ được hưởng chính sách hỗ trợ cao nhất.
Nguyên nhân chính của tư tưởng trông chờ, ỷ lại là do trình độ dân trí không đồng đều, quen hưởng những chính sách hỗ trợ cho không của Nhà nước. Khi có các chương trình, dự án hỗ trợ giống cây, con, vật tư kỹ thuật xây dựng các mô hình thâm canh lúa, ngô, chăn nuôi gia súc thì đồng bào thực hiện tốt nhưng khi chương trình hết hỗ trợ thì mô hình cũng hết.
Để phát huy hiệu quả nguồn lực từ chương trình 135, thời gian tới, các đơn vị địa phương cần tích cực quan tâm làm tốt hơn nữa công tác tuyên truyền giúp người dân hiểu rõ, nắm rõ chính sách của Nhà nước. Hướng dẫn người dân phương pháp, kỹ thuật sản xuất; động viên, khuyến khích, biểu dương hộ đã thoát nghèo và tự lực thoát nghèo để từ đó khuyến khích, động viên các hộ khác, tạo thành phong trào thi đua tự lực vươn lên thoát nghèo bền vững. Bên cạnh đó, triển khai nghiêm túc, công khai, dân chủ trong bình xét hộ nghèo… Để công tác giảm nghèo thực sự có hiệu quả thì rất cần có sự vươn lên tự khẳng định mình, phát triển kinh tế gia đình, phát huy tác dụng của “cần câu” mà Nhà nước đã trao cho các hộ nghèo, cận nghèo. Có như vậy công cuộc giảm nghèo mới thực sự hiệu quả, góp phần quan trọng vào việc giảm tỷ lệ hộ nghèo toàn tỉnh.
Nguyễn Nga